ạo đức thể hiện nét đẹp trong phong cách sống của một người. Có sự hiểu biết và rèn luyện ý chí theo các bậc tiền nhân về các quy tắc ứng xử, các đường lối tư duy thanh tao tốt đẹp. Vậy, đạo đức là gì ? Đạo đức và pháp luật có gì khác nhau?
Đạo Đức là gì?
Đạo đức là một từ Hán Việt. Được dùng từ xa xưa để chỉ một thành tố trong tính cách, giá trị của một con người. Đạo là con đường, đức là tính tốt hoặc những công trạng tạo nên. Khi nói một người có đạo đức là ý nói người đó có sự rèn luyện thực hành các lời răn dạy về đạo đức. Đời sống chuẩn mực, có nét đẹp trong đời sống tâm hồn.
Đạo đức có thể được nhìn thấy theo các góc độ sau:
Nghĩa hẹp: Đạo đức thể hiện nét đẹp trong phong cách sống của một người có hiểu biết. Luôn có các quy tắc ứng xử, các đường lối tư duy thanh tao tốt đẹp.
Nghĩa rộng hơn: Nghĩa rộng hơn, đạo đức trong một cộng đồng thể hiện qua những quy tắc ứng xử được áp dụng từ việc hợp với đạo lý xưa nay, hợp phong tục của địa phương, cộng đồng đó. Tạo thành nét đẹp truyền thống văn hóa.
Nghĩa rộng: Đạo đức của cả một xã hội thường được xét đến khi xã hội đó bị hỗn loạn, thiếu chuẩn mực. Khi đó những bậc trí giả sẽ định ra những chuẩn mực cơ bản nhất để tạo dựng nên nền tảng đạo đức. Khi đã đạt đạo đức cơ bản nhất thì đó là đạo đức xã hội. Từ đó học tập đi lên thành các thành phần cao cấp hơn.
Chuẩn mực đạo đức là gì ?
Chuẩn mực đạo đức là hệ thống các quy tắc, yêu cầu đối với hành vi xã hội của con người, trong đó xác lập những quan điểm, quan niệm chung về công bằng và bất công, về cái thiện và cái ác, về lương tâm, danh dự, trách nhiệm và những phạm trù khác thuộc đời sống đạo đức tinh thần của xã hội.
Chính con người đã xác lập và tạo dựng hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối với hành vi của mỗi cá nhân hay tổ chức xã hội. Từ đó hình thành trong xã hội hệ thống các chuẩn mực đạo đức. Chúng tham gia và phát huy tác dụng trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống.
Dù chuẩn mực đạo đức là bất thành văn, nhưng chúng đều là phương tiện định hướng, điều chỉnh các hành vi của cá nhân và các nhóm xã hội. Đồng thời là phương tiện kiểm tra xã hội đối với các hành vi của họ. Nhờ có các chuẩn mực đạo đức chúng ta luôn phải xem xét, suy nghĩ trước khi thực hiện hành vi.
Thành phần cấu tạo nên đạo đức là gì
“Đạo đức” nghe có vẻ dễ dàng tuy nhiên nó lại mang hình thái khá phức tạp. Nắm bắt được cấu trúc của nó giúp bạn hiểu sâu hơn về thuật ngữ này.
Ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức là những nguyên tắc và chuẩn mực hành vi phù hợp mà con người dựa theo để hành xử, đồng thời cũng bao gồm cả mặt cảm xúc và tâm tư tình cảm của mỗi con người.
Xét trên phương diện là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức chính là sự thể hiện thái độ nhận thức của một ai đó trước những hành vi của mình dựa trên những quy chuẩn xã hội đặt ra trước đó.
Nói như vậy có nghĩa là ý thức đạo đức chính là phần nhận thức của mỗi cá nhân trước một sự việc hiện tượng sắp xảy ra với mình. Nhờ có thành phần này mà hành động của mỗi người sẽ được hoàn thiện hơn.
Hành vi đạo đức
là những hành động được thực hiện bởi 1 cá nhân nào đó ra bên ngoài.
Sẽ có hành vi hợp với quy chuẩn với xã hội nhưng cũng có những hành vi không phù hợp. Vậy làm sao để phân biệt đâu là hành vi đạo đức và phi đạo đức?
Chức năng cơ bản của đạo đức
Điều chỉnh hành vi của con người theo các chuẩn mực, quy tắc đạo đức đã được xã hội. Sự thôi thúc trong lương tâm con người, của dư luận xã hội, của tập quán truyền thống, của giáo dục.
Đạo đức qui định thái độ, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người đối với bản thân cũng như đối với người khác và xã hội. Vì thế đạo đức là khuôn mẫu, tiêu chuẩn để xây dựng lối sống, lí tưởng mỗi người.
Những chuẩn mực và qui tắc đạo đức gồm: độ lượng, khoan dung, chính trực, khiêm tốn, dũng cảm, trung thực, tín, thiện, tàn bạo, tham lam, kiêu ngạo, hèn nhát, phản bội, bất tín…
Vai trò của đạo đức là gì
Đạo đức có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội. Cả trong đời sống của con người. Đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra giải quyết nhằm đảm bảo cho cá nhân, cộng đồng tồn tại phát triển. Sống trong xã hội, ai cũng phải suy nghĩ về những vấn đề đạo đức. Từ đó tìm ra những con đường, cách thức và phương tiện hoạt động nhằm kết hợp lợi ích của mình và cộng đồng. Bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của chính mình và cộng đồng.
Trong sự vận động phát triển của xã hội loài người suy cho cùng nhân tố kinh tế là cái chủ yếu quyết định. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh tế thành cái “duy nhất” thì sẽ dẫn tư duy, hành động lầm lạc đáng tiếc. Sự tiến bộ của xã hội phải luôn song hành cùng giá trị đạo đức. Khi xã hội loài người có giai cấp, có áp bức, có bất công. Việc chiến đấu cho cái thiện đẩy lùi cái ác đã trở thành ước mơ, khát vọng của con người. Điều này đã trở thành chất men, thành động lực kích thích, cổ vũ nhân loại vượt lên, xốc lên. Đạo đức đã trở thành mục tiêu đồng thời cũng là động lực để phát triển xã hội.
Vai trò của đạo đức còn được biểu hiện thông qua các chức năng cơ bản của đạo đức: Chức năng điều chỉnh hành vi, giáo dục, nhận thức như đã trình bày ở phần trên. Chính vì vậy Đạo Đức được đưa vào ngay lớp học đầu tiên của giáo dục. Có thể nói Đạo đức là môn cần được học rèn luyện đến suốt cuộc đời mỗi người.
Phân biệt đạo đức và pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và được bảo đảm thực hiện. pháp luật thể hiện ý chí nhà nước, điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Đạo đức và pháp luật đều là hệ thống các qui tắc xử sự chung, chuẩn mực xã hội. Đều giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với lợi ích cộng đồng, xã hội.
Tuy nhiên, đạo đức khác với pháp luật ở chỗ:
– Sự điều chỉnh hành vi của đạo đức không có tính cưỡng bức, cưỡng chế mà mang tính tự nguyện. Các chuẩn mực đạo đức không được ghi thành văn bản.
– Phạm vi điều chỉnh và ảnh hưởng của đạo đức rộng hơn pháp luật. Pháp luật chỉ điều chỉnh những hành vi liên quan đến chế độ xã hội, chế độ Nhà nước. Còn đạo đức bao quát mọi lĩnh vực của thế giới tinh thần.
– Pháp luật chỉ làm rõ những mẫu số chung nhỏ nhất của các hành vi hợp lẽ phải. Hành vi đạo lí đúng đắn tồn tại bên trên luật.